Phật-Mẫu được nhân-loại tôn thờ dưới nhiều danh xưng khác nhau : Tây phương gọi là Đức Mẹ, Đông-phương gọi là Cửu-Thiên Huyền-Nữ, Thái-Dương Thần-Nữ, Tiên-Thiên Thánh-Mẫu, Lão-giáo gọi là Lão Mẫu, Aán-độ giáo xưng tụng NGƯỜI là Devi Bhagava, Thông-Thiên-học gọi là Đức Mẹ Thế-Gian. Việt-Nam gọi là Bà Chúa Tiên hay là Mẫu, Mẹ-Sanh... đa số nữ phái Việt-Nam đã tín-ngưỡng Phật-Mẫu từ lâu đời, hiện nay ở Cố-đô Huế có hội Tiên-Thiên Thánh-Mẫu, thờ-phụng NGƯỜI tại Điện Hòn-chén, hằng năm có tổ-chức lễ hội rất là linh-đình trọng thể.
Trong Đạo Cao-Đài có đền thờ Phật-Mẫu, tại Thánh-địa Tây-Ninh hằng năm có lễ hội lớn vào ngày rằm tháng tám. Ở mỗi địa-phương có Điện thờ Phật-Mẫu bên cạnh Thánh-thất hương khói sáng chiều. Như vậy tuỳ theo tín-ngưỡng mỗi nơi mà có sự thờ phụng, chiêm-bái khác nhau.
Sau đây chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về bổn-nguyên, quyền-năng và công-đức của Phật-Mẫu đối với chúng-sanh.

Còn nói về Phật-Mẫu, Đức Hộ-Pháp đã cho biết quyền-năng của NGƯỜI như sau :
- "... Nếu có Đức Chí-Tôn mà không có Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu thì trong vũ-trụ không có chi về mặt hữu vi..." " Cả cơ-quan tạo đoan hữu tướng thảy đều do Phật-Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi Trần mang mảnh hình hài, cái chơn-linh khi đến, khi về cũng do tay Phật-Mẫu sản-xuất, Phật-Mẫu là mẹ linh-hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì càng cảm mến cái công-đức hoá-dục sản-xuất của Ngài vô cùng. " Bây giờ nói về tại sao có Phật-Mẫu :
... Đức Chí-Tôn là nguồn cội cả bí pháp... trong bí pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật-Mẫu sản-xuất cả cơ hữu vi của vũ-trụ. Bởi thế quyền-năng của Phật-Mẫu là mẹ khí-thể của ta. (Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân-từ ngày mồng một tháng 02 Đinh-Hợi/1947).
- "... Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-cực, Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát quái, Bát-quái biến hoá vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới. (TNHT/Q2/62).
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : vật chất thảo mộc, côn trùng gọi là chúng sanh..." (Trích TNHT/Q2/ trang 62).
- " Lưỡng nghi phân khí Hư-vô
Diêu-trì Kim-Mẫu nung lò hoá sanh,
Aâm dương biến tạo chơn-thần,
Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
- "Từ Hổn-độn Chí-Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư-vô.
Lấy Aâm-quang tạo phách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh-hoá.
(Đàn cơ tại Thảo-Xá Hiền-Cung đêm 15 tháng 11Aát-mùi (23-12-1931) Phò-loan Hộ-Pháp & Bảo-văn Pháp quân)
Đức Hộ-Pháp đã nói về sự tương-quan giữa Chí-Tôn và Phật-Mẫu cùng vũ-trụ van-linh như sau :
- " Nếu khối Nguơn-linh của Đức Chí-Tôn không hoà hợp với Nguơn-Aâm của Phật-Mẫu thì Thái-Cực chưa ra tướng, hể Thái-Cực chưa ra tướng là Càn-Khôn Vũ-Trụ nầy không có chi hết" (Thuyết Đạo của ĐứcHộ-Pháp tại Đền Thánh ngày 14 tháng 9 Mậu-Tý /1948)
- "Phật-Mẫu chủ âm-quang, Chí-tôn chủ Dương-quang, âm dương tương hiệp mới có năng-lực sanh-hoá ra càn-khôn thế-giới. (Theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp giải nghĩa Phật-Mẫu chơn kinh).
- "Aâm-quang là khí chất hỗn độn sơ khai khi Chí-tôn chưa tạo-hoá, lằn âm-khí ấy là Diêu-Trì-cung, chứa để tinh-vi vạn-vật, tỷ như cái âm-quang của phụ-nữ có trứng cho loài người. Khi Chí-Tôn đem dương-quang ấm-áp làm cho sinh-hoá, thì khoảng âm-quang phải thối-trầm làm tinh- đẩu, là cơ-quan sinh hoá vạn-linh. Song lằn âm-quang ấy có giới-hạn, nghĩa là nơi nào ánh dương- quang của Chí-Tôn chưa chiếu giám thì phải còn tối tăm mờ-mịt, chẳng sanh hoá..." (Trích TNHT/QII/trang 85)
Đó là quyền-năng của Phật-Mẫu theo Cao-Đài giáo. Còn các tôn-giáo đã nói về Phật-Mẫu như sau :
Theo Thông Thiên học dã nói về Đức Mẹ Thế-gian như sau:
- " Đức Mẹ Thế-Gian là một trạng thái Ngôi hai của Thượng-Đế, Ngài là chúa-tể của các vị Thiên-Thần. Tinh-thần Ngài đã ngự-trị trong thâm-tâm con cái của Ngài là nhân-loại, trong mỗi đẳng-cấp của cõi Trời và cõi Phàm đều có Ngài hiện-diện. Quyền-năng của Ngài rất bao-la, trí phàm không thể hiểu nỗi. Chẳng những Ngài là hiện thân của tình thương đậm-đà và kỳ-diệu nhất, mà cũng là Đấng cực kỳ uy-nghiệm và quyền-lực vô song Ngài luôn luôn đầy ân-huệ, chứa-chan niềm từ-bi bác-ái, sẵn-sàng đáp lại sự kêu vang cầu-cứu của nhân-loại. Dù quyền-năng của Đức Mẹ Thế-Gian là cứu giúp tất cả sinh-linh, nhưng Ngài chú-tâm đặc-biệt đến thiếu-nhi và phụ-nữ, nhất là lúc sinh-sản, vì hai hạng này thường yếu-đuối cần phải thương-yêu bảo-bọc nhiều hơn. Ngài luôn luôn ôm-ấp và ban cho họ sự chở-che, sự nương-nhờ khi cần kíp, để xua đuổi sự nguy-nan thống khổ ở quanh mình họ. (Theo Tạp-chí Tìm-hiểu Thông-thiên-học số II, 12 Xuân Aát-mùi 1955).
Tóm tại bổn-nguyên và quyền-năng của Phật-Mẫu theo Đức Hộ-Pháp dẫn giải như sau :
- " Từng Trời Tạo-hoá-Thiên có vị cầm quyền năng tạo-đoan gọi là Thiên-hậu. Nắm cả Kim-bàn, tức là nắm đẳng-cấp Thiêng-liêng, điều-khiển các chơn-linh gọi là Phật-Mẫu Diêu-Trì. " Thời kỳ này NGƯỜI đã xuất nguyên-linh đến dạy dỗ chúng ta... " Khi mở Đạo Cao-đài Chí-Tôn định cho Phật-Mẫu đến giáo đạo cho chúng ta, bảo-trọng nuôi-nấng dạy-dỗ chúng ta thì không ơn-đức nào bằng, vì không ai biết thương con, muốn con nên người, bảo trọng binh-vực con hơn mẹ... (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân từ ngày 15 tháng 8 Đinh Hợi).
Contents

Theo phương pháp suy-luận Đức Hộ-pháp đã dạy :
" Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn..." (Trích LTĐ của ĐHP/QI/132 : 31)
Do đó ban đầu tuy thấy một mà trong đó có hai, nếu độc dương thì bất sanh, cô âm thì bất trưởng. Nên Đức Hộ-pháp đã nói :
- "Aâm dương tương-hiệp mới có năng-lực sinh-hoá".
- "... Buổi mới mở Đạo, Bần Đạo biết công-nghiệp của Phật-Mẫu thế nào, Ngài và Cửu vị Nữ Phật dìu-dắt con cái của Đức Chí-Tôn từ ban sơ đến ngày đem giao lại cho Thầy. Ngày mở Đạo, vì cái tình-cảm ấy, mà các vị Đại Thiên-phong buổi nọ xin thờ Phật-Mẫu ở Đền-Thánh, thì Phật-Mẫu cho biết rằng quyền Chí-Tôn là Chúa, còn Phật-Mẫu là Tôi, mà Tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa. Chúng ta thấy Phật-Mẫu cung kính Chí-tôn đến dường ấy không gì lượng được. (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-Ân-Từ ngày mồng một tháng hai Đinh Hợi / 1947).
- " Cả vật loại hữu tướng này có hai quyền năng sản-xuất :
- 1- Chí Tôn
2- Đức Mẹ
- " Chúng ta đã có một bà Mẹ là Phật-Mẫu cầm quyền năng tạo đoan xác thịt hình hài của ta, Chí-tôn là Cha cho nhứt điểm Tính, Phật-Mẫu là mẹ của xác, cho nhứt điểm Khí, cha mẹ hữu hình, vâng lịnh Phật-Mẫu tạo xác thịt hiện hữu đây, còn quyền-năng thi-hài Đấng ấy làm chủ. Phật-Mẫu có tính-chất của Bà Mẹ, Bần Đạo xin làm chứng rằng : tính-chất bà mẹ hữu-hình thế nào thì tính chất của bà mẹ Phật-Mẫu cũng hiện y nguyên như vậy, nhưng có phần yêu-ái hơn, bảo trọng hơn, binh vực hơn. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp đêm mồng 01 tháng Mười năm Đinh Hợi/194).
- "... Vào Đền thờ Phật-Mẫu đều bạch-y tất cả, dầu Giáo-Tông hay Hộ-Pháp cũng phải cổi thiên-phục để ở ngoài. Hỏi tại sao như vậy ? Lấy tánh đức thường tình của một và mẹ không có gì lạ, ta thấy trong gia-đình kia dầu rân-rát, một người dầu quyền cao chức trọng, dầu làm quan toà, tham-biện hay tể-tướng đi nữa, mà bước vào nhà, con làm tể-tướng thì bà mẹ không ưa, lại thêm phiền luỵ, làm quan với ai kia, chớ về làm quan với gia-đình à ! Oai quyền với thiên-hạ ở ngoài chớ ở đây không thể làm oai-quyền với mẹ được, dầu bậc nào cũng vậy vẫn là con thôi..." (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp ngày mồng 01 tháng 10 Đinh Hợi/1947).
- "Trong cửa Đạo Cao-đài có hai đền thờ : một đền thời ta ngó rất trật-tự hàng ngũ, bởi vì nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng ta đều có trong hàng phẩm Cửu-Thiên Khai-hoá cả. Quý-phái như thế. Còn một đền thờ nữa thờ Phật-Mẫu tức là Mẹ của chúng ta, thì cái quý-phái của chúng ta không còn giá-trị gì nữa... Đến Phật-Mẫu không muốn cả chức-sắc Thiên-phong đi đến đền thờ của Người và Người nhứt-định không chịu điều ấy, vậy phẩm-tước và giai-cấp đối với Phật-Mẫu không có giá-trị, vì Phật-Mẫu không muốn đứa nào áp-bức đứa nào cả, hành-tàng như vậy bị tiêu-diệt. (Trích thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp đêm 15 tháng 8 Mậu Tý/1948).

- "... Thầy thường nói với các con rằng : Thầy là cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành càn-khôn thế-giới và sinh dưỡng các con..." "... Ôâi ! Thầy sanh các con thì phải yêu trọng các con chằng cùng, mà Thầy cho các con đến thế giới nầy với một thánh thể thiêng-liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải đoạ, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm dục quyền cầu lợi. (TNHT/Q2/ trang 63).
- " Các con phải biết trong Trời Đất, nhơn sanh là con quý của Thầy, nên Thầy hằng để ý lo lường cho các con biết hối-ngộ hầu chung hưởng phước lành.." (TNHT/Q2/ trang 29).
- "... Trước Thầy giao chánh-giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-giáo mà lập ra cuộc phàm giáo, Thầy lấy làm đau-đớn, hàng thấy trót mười ngàn năm nhơn-loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn a-tỳ. " Thầy nhứt-định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh-giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi bồng-đảo" (TNHT/Q1/ trang 18).
- " Ta vì lòng đại-từ, đại-bi, vẫn lấy đức háo-sanh mà dựng nên Tâm-Kỳ Phổ-Độ tôn chỉ để cứu vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa-vị cao thượng để khỏi số mạng luân-hồi, và nâng đỡ kẻ thánh-đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó ở thế-gian này ...". (TNHT/QI/ trang 64).
- " Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết, nên thường thâu nhập nhiều đứa vô tâm cũng muốn cho chúng ăn-năn chừa lỗi, ngỏ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao rổi đặng. Đến buổi chung qui mới thấy thiên-đàng, địa-ngục thì đã muộn rồi, các con phải xét mình cho lắm nghe." (TNHT/QI/ trang 60).
- " Từ khai thiên lập địa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải qua bao nhiều điều khổ hạnh, mấy lần lao-lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con, hầu lập nền Đạo, cũng tưởng các con lấy đó soi mình đặng cải tà qui chánh.
" Mấy lần vun đắp nền Đạo, Thầy cũng bị các con mà hư giềng Đạo cả.
" Thầy buồn đó các con.
" Thầy ban ơn các con. (TNHT /QI/ trang 62).
- " Ôi ! Thầy đã lắm nhọc-nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế-độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó đã nhiễm luyến mùi trần-thế, tâm-chí chẳng vững bền, thấy khó đã toan ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước, Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền-vi để cơ trời xoay đổi, các con liệu lấy" (TNHT/QI/ trang 56).
- " Xưa kia con người đi tìm Đạo, còn hôm nay trái lại Đạo lại đến tìm người. Ôââi ! nếu ta tưởng-tượng cái ân-hậu vô-biên của Đức-Chí-Tôn đã thi-thố, thì chúng ta đã hạnh-phúc không có ngôn-ngữ nào mà tả đặng... " (Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp ngày 15 tháng 8 Nhâm-Thìn/ 1952) tại Cửu-Long-Đài đền thờ Phật-Mẫu).
- " Riêng thương Kim-Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
Đòi phen Mẹ luốn u sầu,
Cũng vì tà mị dẫn đường con thong
(Kinh xưng-tụng công-đức Phật-Mẫu)
- "Từ Vô-Cực vào trong cảnh giới,
Mới để tâm so-sánh Tiên Phàm.
Chẳng từ ô trược dương-gian,
Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.
(Đàn cơ tại Trí Huệ cung đêm 7 tháng 1 Tân-mão (1202-1951) Phò-loan Phạm Hộ-Pháp & Cao Tiếp Đạo)
- Chiếu nhũ lịnh Từ-Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam bắc đông tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh-Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai đại-đồng.
(Phật-Mẫu chơn kinh).
- " Ngồi trông con đặng phi-thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng-sanh. (Kinh Xưng tụng công-đức Phật-Mẫu).
- " Tôi là một khoa-học gia, trọn đời hiến dâng cho khoa-học, tôi không hề tin các sự-kiện vô hình, huyền-bí mà chỉ tin những gì khoa-học chứng-minh một cách rõ-ràng thôi. Một hôm người ra đem đến bệnh-viện một cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ-lùng, một hội-đồng y-khoa gồm các bác-sĩ danh tiếng nghiên-cứu suốt mấy tháng liền nhưng đành bó tay tuyệt-vọng... Bỗng tôi thấy một điều lạ lùng, một người Đàn Bà hiện ra bên cạnh cô bé, thân thể Ngài sáng chói hào-quang... Tôi bỗng nhận-thức ra Ngài là Đức Mẹ Thế-Gian... Lòng tôi bỗng hoàn-toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất, mặc dù suốt đời tôi chưa biết cầu-nguyện là gì. Tôi cầu xin với tất cả thành-kính xin Đức Mẹ cứu chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn-vinh hoạt-động của Đức Mẹ và theo Ngài vĩnh-viễn... Cô bé được chữa lành. Ngày hôm sau cả bệnh-viện xôn-xao cho rằng tôi đã chữa lành cho cô bé... Trường y-khoa yêu-cầu tôi công-bố phương-pháp chữa trị và đòi đặt tên tôi vào căn-bệnh đó. Họ tin rằng với phát-minh này chắc-chắn giải Nobel sẽ về tay tôi... Dĩ-nhiên tôi không thể trả lời, và dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng y-khoa cực-kỳ giận dữ cho rằng tôi giấu nghề... Tôi trả lời rằng chính Đức Mẹ hiện ra chữa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác-sĩ quốc-gia khác. Hội đồng Y-khoa Aán-độ vô-cùng tức giận đòi trục-xuất tôi, báo-chí xúm vào chỉ-trích tôi là "Thầy phù thuỷ"...
Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi không biết phải làm gì hơn là cầu- nguyện Đức Mẹ giúp cho tôi đủ can-đảm chịu đựng sự bất hạnh này...
Trong thời-gian khủng-hoảng, tôi tin rằng sự-kiện này ắt phải có lý-do, nên hết lòng cầu-nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh : trong một tiền kiếp xa-xuôi tôi là một y-sĩ rất có tài, nhưng tôi đã phủ-nhận các quyền-năng huyền-bí, và chê-bai những kẻ có đức tin hay cầu-nguyện Đức Mẹ. Đó là hậu-quả tôi gánh chịu ngày hôm nay.
Kể từ hôm nhìn thấy Đức Mẹ, một sư thay đổi lớn đã diễn ra trong tâm-hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết tôn-giáo, tôi hấp thu một nền giáo-dục Tây phương, nên tin tưởng tuyệt-đối ở khoa-học. Sự chứng kiến phép lạ, thay đổi tất cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn-toàn khác trước, tôi thanh thản vô-cùng, và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn thì giờ để cầu-nguyện là phát-nguyện đời đời kiếp kiếp theo chân Đức Mẹ, cứu giúp tất-cả chúng-sanh. Một hôm trong lúc cầu nguyện Ngài bỗng hiện ra mỉm cười và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một thế-giới mới lạ. Tôi ý-thức được các điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng-kiến rõ ràng các cõi giới khác, cũng như sự hoạt-động tiến-hoá không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản-dị hơn, khả năng thần-nhãn của tôi bổng khai mở. Từ đó tôi quan-sát, học hỏi các cõi giới của Thiên-thần...
Có lẽ các bạn không tin-tưởng lắm, điều này không quan-trọng. Tin hay không là quyền của bạn, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn kinh-nghiệm tâm-linh này thôi... Tôi phát-nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên-ý, đó là lý-do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng ở đô-thị để đến đây... Thì giờ còn lại tôi phục vụ Đức Mẹ qua các công việc Ngài giao-phó. Các bạn thân mến, trọn đời tôi chưa lúc nào sống thật trọn vẹn như bây giờ. (Theo Hành-trình về phương Đông Nguyên-tác của Spalding - bản dịch của Nguyên-Phong).
Trong Đạo-sử của các Tôn-giáo, cũng như sự truyền-tụng ngoài dân- gian trên khắp thế-giới về hình-ảnh NGƯỜI ĐÀN BÀ hiện-thân của một BÀ MẸ nhân-từ sẵn sàng đến cứu giúp những tai ương hoạn hoạ là có thật, nhưng được kể lại từ một huyền-thoại không phải là ít. Trong lịch-sử của Giáo-hội Thiên-Chúa cho biết Đức Mẹ đã hiện xuống ở Fatima (Bồ-đào-nha).Tại Việt-nam Đức Mẹ đã hiện xuống hai lần: một lần tại Trà-kiệu khi triều-đình Nhà Nguyễn ngăn cấm Đạo Thiên-Chúa, các con chiên ngoan đạo bị bách-hại, Giáo-khu Trà-kiệu bị phong toả,Đức Mẹ đã hiện xuống để cứu giúp. Một lần khác tại La-vang dân-chúng tại đây bị chết vì nạn dịch-tể, Đức Mẹ đã hiện xuống chỉ cây lá địa-phương cho dân-chúng chửa bệnh. Ngày nay hằêng năm tại hai nơi này, đến ngày Đức Mẹ hiệân xuống, Giáo-hội tổ-chức lễ hội Kỷ-niệm rất trọng thể, có đông-đảo giáo-dân khắp cả nước về tham-dự.
Trong Đạo-sử Cao-đài có ghi rằng : Phật-Mẫu và Cửu-vị Tiên-nương đã giáng-linh hội-yến với các bậc tiền-bối khi mới khai Đạo gọi là Hội yến Diêu-Trì-cung, điển lễ này hiện nay vẫn còn đang truyền tụng và hàng năm vào đêm rằm Trung thu tháng tám tại Đền-thờ Phật-Mẫu ở Thánh-địa Tây Ninh lễ kỷ-niệm đêm Hội yến này được tổ chức rất là trọng-thể.
Trong một lần khác ở Kim-biên Tông-đạo Cao-miên-quốc (Nay là Cam-pu-chia) tại Báo-ân-đường Bát-nương Diêu-trì cung giáng cơ cho bổn kinh Đức Diêu Trì Kim-Mẫu do Đức Hộ-Pháp Phò-loan nơi Đại-điện, thì tứ phía Báo-Ân-đường đều có hào-quang giáng-hạ,ï có nhiều người chứng kiến, kể cả người không giữ Đạo (Theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trên Cửu-Long-Đài hồi 4 giờ chiều ngày rằm tháng 8 Đinh Hợi).
Các sự-kiện nêu trên không những chứng tỏ Phật-Mẫu luôn luôn tiếp cận với chúng ta mà còn ngự-trị ngay trong tâm-khảm của mỗi người, nên bất kỳ lúc nào ở đâu, chúng ta cầu xin đều có linh ứng.
Còn một điều trong chúng ta ít có người nghĩ đến là hằng ngày chúng ta đã sống bằng khí sanh-quang của Phật-Mẫu mà chúng ta không hề hay biết. Trong Phật-Mẫu chơn-kinh có câu :
- " Sanh quang dưỡng dục quần nhi".
- " Phật-Mẫu lấy khí sanh-quang (fluide de vitaliés) nuôi nấng con cái của NGƯỜI" (theo giải nghĩa Phật-Mẫu chơn-kinh).
Nên trong 12 bài luyện tập thân thể do Đức Hộ-Pháp chỉ giáo, phần luyện thở có nêu câu Thánh giáo của Đức Lý Giáo-tông :
- " Hỏi ăn chi đặng sống ?
Rằng hớp khí thanh- không"
Căn cứ theo những sự-kiện nêu trên cho chúng ta thấy rằng trong từng giây, từng phút, từng hơi thở của sự sống, chúng ta đều được ân-huệ của Phật-Mẫu ban cho, nói một cách khác là chúng ta luôn luôn nằm trong sự nuôi-dưỡng đùm-bọc của NGƯỜI như thể là một hài-nhi, không thể nào rời được vú Mẹ, cho nên Thánh-giáo của Phật-Mẫu có câu :
- "Vú Mẹ chưa lìa đám trẻ con"
(TNHT/Q2/ trang 87).

- " Bần Đạo dám cả-quyết nơi Đền thờ của Đại Từ-Mẫu chúng ta. bà không kể con cái sang-trọng cao sang của Bà đâu, trái ngược lại Bà lại thương yêu bênh-vực những đứa nào thiệt-thà, hèn yếu hơn hết, ấy vậy Qua nói rằng : Trong cả mấy em đây, nếu có đứa nào thiếu thốn cả tinh-thần và vật-chất, thiệt-thòi nghèo khổ, tật-nguyền, Qua dám chắc, Bà Mẹ thiêng-liêng của chúng ta sẽ vui ở với kẻ ấy lắm vậy. Qua chẳng phải nói để an ủi mấy em, mà sự thật quả quyết vậy. Qua chỉ cho các em một bí-pháp, là khi nào mấy em quá thống-khổ, quá đau đớn tâm-hồn mấy em đừng vội sầu thảm, các em quỳ xuống giữa không- trung, các em nguyện với Bà Mẹ thiêng-liêng ấy một lời cầu-nguyện, Bần Đạo quả-quyết rằng Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Qua đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức Phật-Mẫu thí-nghiệm như Qua thử coi. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp ngày rằm tháng 8 Nhâm-Thìn (1952) tại Cửu-Long-Đài đền thờ Phật-Mẫu).
Tóm lại tất cả chúng sanh, nhất là con người, đều là con cái yêu-quý của Đức Chí-Tôn và Phật-mẫu, nói một cách khác chúng ta đều có cùng chung một Cha Mẹ Thiêng-liêng. Chí-Tôn và Phật-Mẫu không thuộc bất-cứ một giòng-giống nào hay một tôn-giáo nào. Các Đấâng đều thị-hiện như nhau trong tất-cả con người, từ hạng thượng-lưu trí-thức cho đến kẻ khốân-khổ bần-cùng. Tuỳ theo phong-hoá mỗi địa-phương và sự hiểu biết của con người qua mỗi thời-kỳ, mà họ đã tôn-vinh các Ngài bằng nhiều danh xưng mỹ-miều hay mộc-mạc khác nhau , các Ngài cũng đều chấp nhận và ban ơn. Cũng như sự thờ-phụng các Ngài từ những đền-điện cao-sang của các Tôn-giáo, có kiến-trúc nguy-nga, cho đến những thảo-xá giản-đơn của những người tu-chơn ẩn-dật nơi sằng-dã, các nơi nầy cốt để cho con người tụ-họp nhau chiêm-bái, mục-đích để biểu-lộ lòng tôn-kính, hiếu-hạnh và ước mong giao-cảm được với các Ngài. Nhưng Ngôi Đền thực sự lại ở ngay trong Tâm Con Người, chúng ta phải quay vào trong ngôi Đền thực-sự đó để tôn-thờ, mới mong giao-cảm và gặp-gở được Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
Những người sơ-cơ mới bước chân vào sự tín-ngưỡng, thường tôn-thờ Chí-Tôn và Phật-Mẫu nơi các đền-đài tôn-giáo, với các lễ-nghi của nó, nhưng khi đức-tin họ già-dặn và đã trở nên minh-triết thật-sự, thì họ lại tôn-thờ Chí-Tôn và Phật-Mẫu bằêng ngôi đền-thờ chính trong tâm-linh của mình, và họ cố-gắng làm cho Ngôi-Đền Thân-Thể nầy càng ngày càng đẹp-đẻ hơn, bằng những tư-tưởng trong-sạch và đời sống thanh-cao, bởi vì những đền-đài do bàn tay con người xây-dựng dù có nguy-nga trang-lệ bao nhiêu, cũng không thể thay-thế được Ngôi Đền thực-sự là thân-thể và tâm-linh con người do chính Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu tạo-lập được. Điều nầy Đức Chí-Tôn đã xác nhận rằng:
- " Bạch-Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳêng màng hạ-giới vọng cao ngôi.
Sang hèn vốn sẵn tâm là quý,
Tâm ấy Toà Sen của Lão ngồi. (Thi-văn Dạy Đạo)
- "Trong lòng Thầy ngự động Thầy hay.
Ngặt nỗi từ xưa chẳng thế bày.
Đạo-hạnh khuyên con gìn tánh-đức,
Cửa cung Bạch-ngọc đã gần khai. (Thi-văn dạy Đạo)
Cũng tương-tự như vậy, không có kinh-sách nào hơn kinh-sách nào, bởi vì tất-cả đều có mục-đích đưa con người đến với Chí-Tôn và Phật-Mẫu và để hướng-dẫn họ biết thương-yêu và tôn-kính các Ngài, nhưng thật ra không có ngôn-ngữ nào có thể diễn-tả được các Ngài, cũng không có sách vở nào có thể chứa đựng trọn vẹn được Chí-Tôn và Phật-Mẫu, vì đây là một Đấng mà chữ-nghĩa và ngôn-ngữ hửu-hạn của thế-gian không thể nào mô-tả trọn vẹn được. Nên đối với Kinh-điển Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
- "Kinh-điễn giúp đời siêu phàm nhập Thánh , chẳng khác chi đủa ăn cơm, chẳng có đủa , kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng . Các con coi kinh-điển lại, rồi thử nghĩ lại sự công-bình thiêng-liêng mà suy ngẫm cho hay lẽ phải. Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm-vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất nghe à !. (TNHT/Q2/trang 5).
Đức Hộ-Pháp cũng đã khuyên chúng ta rằng :
- " Phải yêu ái hiếu hạnh với Chí-tôn và Phật-Mẫu, cái yêu-ái ấy phải phi-thường do tâm linh điều-khiển... (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp về Con đường thứ ba tại Khách Thiện từ ngày 15/11/Bính-tuất/1946).
- " Tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu". (Trích Phương Luyện Kỷ).
No comments:
Post a Comment